Hôm ấy là một ngày thu ảm đạm và bầu trời dày đặc những đám mây đen u ám, nặng nề. Suốt ngày tôi đã rong ruổi trên lưng ngựa qua những con đường quê buồn tẻ để tìm thăm một người bạn tên Usher đang ẩn mình nơi thôn dã; và khi đến nơi thì bóng chiều đã xế.
Tôi đưa mắt ngắm nhìn cảnh vật quanh ngôi nhà của bạn mình, lập tức - tôi cũng chẳng hiểu tại sao - thấy lòng chợt chùng xuống tê tái như vừa bị một tấm chăn đen dày cộm nào đó phủ trùm lên. Ngôi nhà cổ với những bức tường đá rêu phong cao ngất ngưởng điểm xuyết bằng những khung cửa sổ hẹp, quanh đó rải rác từng đám lau sậy lơ thơ cùng bao thân cây khô mục đang chết dần; tôi nhìn toàn bộ cảnh hoang tàn này mà cảm thấy như có bàn tay băng giá vô hình nào đó đang bóp chẹt lấy trái tim. Một nỗi buồn chán bệnh hoạn như đang phủ trùm lên cảnh vật nơi đây, và tôi nghĩ con người dù lạc quan cách mấy cũng khó mà bình an được ở chốn này.
Tại sao cảnh tượng ngôi nhà người bạn thân lại có thể khiến tâm hồn tôi chùng xuống bạc nhược đến thế? Tôi tự hỏi nhưng không tìm thấy câu trả lời.
Có một cái hồ cạnh ngôi nhà và tôi dong ngựa đến gần ngắm xem. Có lẽ ngôi nhà khi được nhìn từ ánh phản chiếu trên mặt hồ sẽ bớt đi vẻ u ám, buồn tẻ chăng?
Tôi nhìn xuống mặt hồ phẳng lặng và thấy ở đó ngôi nhà với những cửa sổ màu đen trông giống như những cặp mắt lơ láo đang nửa khép nửa mở ra trên khuôn mặt vô hồn, còn những khóm lau sậy và hàng cây khô mục thì khoác đầy những hình thù kỳ dị; hình bóng của chúng phản chiếu dưới hồ trông còn quái gở hơn cả cảnh thực. Tôi rùng mình, và sau một hồi lâu quan sát với những ấn tượng nặng nề, đành chán nản dẫn ngựa bước từ từ đến gần ngôi nhà.
Chính trong ngôi nhà này tôi sẽ phải trải qua một vài tuần lễ. Chủ nhân của nó, Roderick Usher, là một người bạn thân của tôi từ thuở thiếu thời. Từ nhiều năm rồi chúng tôi không có dịp gặp nhau, nhưng mới đây anh ấy có viết gửi tôi một lá thư - một lá thư khá buồn và khủng khiếp. Anh viết rằng anh mắc bệnh, cả thể xác lẫn tâm thần; và tha thiết mong được tôi đến thăm, ở chơi vài tuần. Tôi là người bạn duy nhất của anh trên đời, sự hiện hiện của tôi sẽ là nguồn an ủi quý báu có thể giúp anh phần nào vượt qua cửa ải bệnh tật.
Dù là bạn bè thân thiết thời niên thiếu, nhưng thật tình mà nói, tôi biết rất ít về bản thân và gia đình anh ta. Anh vốn dè dặt, hiếm khi nói về mình, và ngại giao tiếp với mọi người. Nhưng dù vậy, tôi cũng rõ anh xuất thân từ một dòng tộc lâu đời gồm những người có tâm hồn yêu nghệ thuật, giàu trí tưởng tượng và óc sáng tạo, đã để lại cho đời nhiều tác phẩm âm nhạc và hội họa có giá trị. Dòng họ của anh, cha truyền con nối, mỗi thế hệ chỉ có một người con trai nối dõi. Danh giá cũng như gia sản để lại không bị gián đoạn, bởi vậy người dân trong vùng, khi gọi tên ngôi nhà đã không tách bạch gọi theo từng tên người thừa kế, mà gọi chung là “ngôi nhà Usher”, điều ấy cũng đồng nghĩa với “trang viên hoặc ngôi nhà của dòng họ Usher”.
Những bức tường đá xám xịt của ngôi nhà mà ngay từ cái nhìn đầu tiên đã khiến tôi ngao ngán, sau đó dần trở nên nỗi ớn sợ khi thấy bóng chúng phản ánh dưới hồ, giờ đây tôi đã hiểu vì sao. Có lẽ cái cảm giác rờn rợn ấy đã bắt nguồn từ cái không khí ủ dột suy tàn chung quanh, từ màu xám thiếu sinh khí của những bức tường, từ những thân cây khô mục, từ cái hồ nước xanh đen tù hãm bí ẩn; tất cả đã quyện lại như một đám mây mù, gây nên niềm sợ hãi bệnh hoạn cho những ai nhìn thấy chúng.
Giống như một giấc mơ vậy, tôi nhủ thầm, rồi nhìn chăm chú hơn vào tòa nhà trước mặt. Thật tình mà nói, tòa nhà mang dáng dấp rất cổ, chứng tỏ đã được xây dựng từ nhiều năm nhưng chưa qua sửa chữa. Nhưng dấu hiệu suy tàn theo năm tháng phủ đầy trên mọi dáng vẻ, tuy nhiên chưa thấy chỗ nào đổ nát. Cái mái hiên vẫn còn nguyên, tường vẫn chưa long viên đá nào, duy chỉ có một vết nứt chạy dài từ mái vòm trên cao xuống đến tận chân tường phía mặt tiền.
Tôi đến trước cửa nhà. Một người đầy tớ chạy ra dắt ngựa để tôi được rảnh tay bước vào. Một người khác lặng lẽ đưa tôi lên lầu. Các bức tường trong nhà treo đầy những bức tranh bí ẩn khiến tôi thoạt nhìn cũng cảm thấy bồn chồn. Tôi nhớ đã từng trông thấy chúng trong những lần đến chơi lúc còn trẻ, nhưng cái cảm giác khi ngắm nhìn thuở ấy thật khác xa bây giờ.
Đến cầu thang, tôi gặp người thầy thuốc của gia đình đang đi xuống. Ông ta có vẻ bối rối khi trông thấy tôi, chẳng biết vì lý do gì. Tôi bước nhanh, e có điều chi không hay vừa xảy ra, và cuối cùng cũng được người đầy tớ đưa đến căn phòng nơi anh đang có mặt.
Căn phòng thật to và rộng rãi, nhưng những khung cửa sổ lại hẹp và cao khiến rất ít ánh sáng có thể lọt được vào phòng. Bóng tối trùm lên các góc tường và những đồ đạc bày biện ngổn ngang bên trong. Có khá nhiều sách vở trên các giá sách và trên tường treo vài cây guitar, nhưng những thứ ấy không tạo được sinh khí cho căn phòng, mà trái lại, còn gây nên cái ấn tượng tù túng và suy nhược.
Nhìn thấy tôi bước vào, đang nằm dài trên sofa, Usher vội vã đứng lên tiếp tôi hết sức nồng nhiệt. Lúc đầu tôi nghĩ chẳng qua vì lịch sự, nhưng khi nhìn vào mặt anh, tôi hiểu là anh rất chân thành. Chúng tôi cùng ngồi xuống, thoạt đầu anh ít nói nhưng rồi sau đó thì thao thao; và khi nhìn kỹ anh khi ấy lòng tôi mới chợt dấy lên một niềm thương cảm xót xa. Quả thật anh đã thay đổi quá nhiều kể từ lần gặp trước; hiếm thấy ai chỉ mới lâm bệnh ít lâu đã đổi thay sa sút đến mức như vậy. Vẫn khuôn mặt đầy khả ái thông minh, vẫn đôi mắt to trong sáng, vẫn đôi môi mỏng và mái tóc dài mềm mượt; thế nhưng, làn da ấy bây giờ đã trở nên xanh rớt, mắt thì như muốn lồi ra, đôi môi chỉ còn là một vệt ngang xanh lợt lạt trên khuôn mặt, còn mái tóc rối bời phủ dài xuống hai bên thái dương bởi đã lâu ngày không cắt sửa. Tất cả tạo nên một chân dung tiều tụy khiến anh như đã hóa thành một người khác; và điều này khiến tôi thấy ngột ngạt vô cùng.
Cứ như vậy, anh cho biết lý do vì sao anh muốn tôi đến thăm, bởi anh mong mỏi sẽ hồi phục được ít nhiều nhờ sự có mặt của tôi bên cạnh. Tiếp đến, anh cho hay căn bệnh mình mắc phải là một căn bệnh lạ, không có thuốc trị, mà những người trong dòng tộc anh trước đây đều vướng phải như một nghiệp chướng. Nó khiến các giác quan của bệnh nhân trở nên mạnh mẽ, nhạy bén, và họ chỉ có thể tồn tại nếu tuân theo những điều kiện khiến cuộc sống trở nên khá vô vị. Anh chỉ có thể ăn những thức ăn lạt lẽo, chỉ có thể mặc những bộ quần áo được may từ một loại vải đặc biệt vì những loại khác có thể làm hại da. Phòng không bao giờ có hoa vì bệnh nhân không chịu nổi mùi hương của bất kỳ loại hoa nào, ánh sáng làm mắt họ nhức nhối, và tiếng động có thể làm hỏng tai - trừ âm thanh êm dịu của cây đàn guitar.
Điều tệ hơn hết, đó chính là anh bị giam hãm trong nỗi sợ hãi của chính mình như một tù nhân. “Tôi sẽ chết”, anh thường nói, “vì nỗi sợ hãi này. Tôi không sợ phải đương đầu với nó, nhưng sợ những hậu quả do nó mang lại. Tôi thật tình run sợ khi nghĩ đến bất kỳ biến cố nào sẽ diễn ra trong tương lai. Bây giờ thì tôi đang cố vật lộn chống lại cái ảo ảnh khủng khiếp, đó là sự sợ hãi, nhưng tôi biết sớm muộn gì mình cũng sẽ kiệt sức và phải từ bỏ cuộc đời này”.
Câu chuyện cứ kéo dài và tôi biết thêm được nhiều điều về căn bệnh lạ lùng của bạn mình. Anh cho rằng nó có nguồn gốc từ chính ngôi nhà của dòng họ Usher. Từ nhiều năm rồi anh không hề dời chân khỏi ngôi nhà này, và anh nghĩ bây giờ thì bản thân mình cũng đã trở nên tiều tụy sầu não như chính nó. Vẻ ảm đạm tang thương của những bức tường màu chì quái gở, cộng với cái không gian gò bó tù túng đã ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của anh không ít.
Anh cũng tin những bất hạnh ảnh hưởng trên đời sống mình một phần cũng có nguyên nhân từ căn bệnh kéo dài không cứu chữa nổi của Madeleine, cô em gái cùng dòng máu mà anh rất đỗi yêu thương, người thân duy nhất của anh còn sót lại trên đời. Cô ấy hiện vẫn còn sống, nhưng dường như mỗi ngày đang mỗi tiến dần đến cõi chết.
“Cái chết của cô ấy,” anh nói, “sẽ khiến tôi chỉ còn lại một mình trên cõi đời này, trở thành con người cuối cùng của dòng họ Usher!”
Tình cờ trong lúc đang nói thì Madeleine, cô em gái mà anh đề cập đến lại xuất hiện, chậm chạp đi qua chỗ chúng tôi tiến về phía cuối phòng mà không hề lưu ý đến một ai. Tôi nhìn theo cô vừa kinh ngạc vừa thương hại. Khi cô gái đã đi khỏi và cánh cửa phòng khép lại, tôi thấy hai bàn tay xanh xao gầy guộc của Usher đang đưa lên ôm lấy mặt để giấu đi những
giọt lệ.
Căn bệnh của Madeleine thật lạ lùng và các thầy thuốc được mời đến đều bó tay không chẩn đoán nổi. Cô ấy dường như chẳng quan tâm đến cái gì, mỗi ngày mỗi yếu và gầy hơn, thỉnh thoảng lại nằm ngủ một giấc dài khiến người ta cứ ngỡ rằng cô đã chết vì nhịp tim hỗn loạn, đôi lúc lại ngừng đập một lát… Cô đã chống chọi với bệnh tật được trong nhiều năm, nhưng từ cái đêm tôi đến cô ấy đã nằm liệt giường không còn đứng dậy đi lại được nữa. “Có lẽ cậu sẽ chẳng còn dịp nhìn thấy nó sống sót nữa đâu,” Usher vừa nói vừa lắc đầu buồn bã.
Mấy ngày tiếp theo, Usher và tôi tránh không nhắc đến cô ta nữa. Trong thời gian ấy, tôi luôn lựa lời để an ủi ban tôi khuây khỏa. Chúng tôi vẽ tranh và đọc sách với nhau, đôi khi tôi ngồi yên lặng để nghe anh chơi đàn guitar. Tôi cố hết sức giúp đỡ bạn mình, nhưng cũng hiểu rằng nỗi buồn nơi anh quá sâu nặng. Sự u ám tang thương dường như phủ trùm lên mọi thứ trong thế giới của anh; thật tình, nhiều khi tôi nghĩ anh đang đến gần bờ mức của sự điên loạn.
Về họa, anh vẽ những bức tranh tuy có màu sắc và chủ đề độc đáo nhưng thật mơ hồ, khó hiểu, mang ảnh hưởng của bệnh tật và tư tưởng tuyệt vọng. Về nhạc, anh viết và hát lên những bài có lời ca ai oán làm nẫu hết cả ruột gan người nghe. Tư tưởng của anh cũng lạ, anh có một ý nghĩ mà có lẽ đối với anh quan trọng hơn tất cả, đó là cây cỏ cũng biết cảm xúc và suy tư; mà không chỉ cỏ cây, đá và nước cũng thế. Anh tin những hòn đá xám dựng nên ngôi nhà mình, những loài thực vật nhỏ bé mọc trên đá, cái hồ và cả những thân cây khô mục, chúng đều có ảnh hưởng trên anh và đã tạo nên con người của anh hiện tại.
Những ý tưởng của anh với tôi có vẻ hơi lạ lùng, nên tôi không biết phải góp ý hoặc bình luận thêm như thế nào.
Một tối kia, trong lúc đang đọc sách thì anh chợt báo với tôi bằng vài lời vắn tắt, rằng cô em Madeleine của anh đã qua đời; và anh quyết định sẽ giữ thi hài cô lại khoảng nửa tháng trong hầm mộ gia đình nằm bên dưới ngôi nhà trước khi đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng. Lý do là vì căn bệnh của cô thật khó hiểu, anh e rằng cô chưa chết hẳn và các thầy thuốc cũng muốn có cơ hội để nghiên cứu thêm. Anh yêu cầu tôi giúp một tay trong việc này và tôi đồng ý vì nhận thấy ý định ấy cũng vô hại.
Cả hai chúng tôi cùng khiêng quan tài đựng xác Madeleine xuống hầm mộ nằm bên dưới ngôi nhà. Hầm mộ này lại nằm ngay bên dưới căn phòng tôi đang ở. Ngày xưa nó vốn là nơi giam người nên chật hẹp tù túng, với cửa ra vào nặng nề được bọc đồng kỹ lưỡng.
Chúng tôi đặt quan tài xuống rồi nhẹ nhàng mở nắp ra để cả hai được nhìn mặt người chết lần cuối. Khi nhìn kỹ, tôi chợt nhận ra gương mặt hai anh em giống hệt nhau. Dường như đoán được ý tôi, Usher cho biết Madeleine và anh vốn là hai anh em song sinh. Tâm trí cả hai tương thông nên có thể hiểu được ý nhau mà không cần dùng lời nói.
Chúng tôi không thể nhìn cô lâu. Căn bệnh quái gở khiến cô dù chết rồi gương mặt vẫn còn phảng phất sinh khí, và đôi môi trông hơi nhếch lên như muốn nhạo báng điều gì khiến tôi rợn da gà. Chúng tôi vội vã đóng nắp quan tài, chốt cửa lại, rồi theo những bậc thang bước trở lên ngôi nhà u ám.
Vài ngày nữa trôi qua trong nỗi buồn tang tóc, và tôi nhận ra ở bạn tôi có những thay đổi trong sinh hoạt hằng ngày. Anh không còn vẽ tranh hay đọc sách được nữa, lúc nào cũng thẫn thờ như người mất hồn. Anh đi lang thang từ phòng nọ sang phòng kia, không biết phải làm gì. Khuôn mặt trở nên xanh rớt như tàu lá, ánh mắt thông minh vốn có nay biến mất, và giọng nói thường run rẩy vì sợ hãi mỗi khi cất lên. Nhiều khi tôi nghĩ anh muốn thổ lộ với tôi một điều bí ẩn nào đó nhưng ngại ngùng. Lúc khác tôi lại cho rằng anh sắp trở nên điên loạn. Anh thường ngồi hằng giờ, ánh mắt vô định, cũng chẳng để ý lắng nghe chi cả trừ những âm thanh đang vang động trong tâm trí của chính mình.
Vào ngày thứ bảy hoặc thứ tám sau cái hôm đưa thi hài của Madeleine vào đặt trong hầm mộ, đêm đó tôi vào giường cố ngủ nhưng cứ trằn trọc mãi. Giờ này qua giờ khác tôi nằm đấy, cố chống lại những cảm giác bất an dâng đầy trong tâm trí. Bên ngoài, cơn bão kéo đến trong ngày đã gia tăng cường độ, và phòng tôi chập chờn hình bóng của những đồ đạc kê lộn xộn bên trong. Tôi cố tự trấn tĩnh, nhưng chỉ thấy mình càng lúc càng thêm khiếp hãi, bạc nhược.
Thình lình, tôi giật bắn người ngồi nhổm dậy nhìn chằm chằm vào bóng tối, dỏng tai nghe động tĩnh. Rõ ràng tai tôi vừa nghe thấy tiếng động , nhưng không phải đến từ cơn bão bên ngoài, mà từ một nơi nào đó rất gần trong nhà. Mặc vội quần áo vào, tôi bắt đầu đi tới đi lui trong phòng, cố thoát khỏi nỗi sợ hãi đang dâng đầy trong tâm trí.
Rồi tôi nghe có tiếng gõ cửa và Usher bước vào. Gương mặt anh trắng bệch như vẫn thường thấy, còn đôi mắt có nét gì đó biểu hiện của sự loạn trí khiến tôi chết khiếp; nhưng thật tình mà nói, dù sao tôi cũng cảm thấy an tâm hơn đôi chút vì không còn phải đứng trơ trọi trong phòng một mình.
Anh nhìn quanh không nói gì một lúc, rồi chợt bật ra câu hỏi, “Anh không trông thấy gì sao? Không thật à? Hãy đợi một lát, thế nào anh cũng sẽ được thấy.” Rồi anh chạy đến mở tung cửa sổ ra.
Gió mạnh từ cơn bão bên ngoài ùa vào phòng gần như muốn thổi chúng tôi té xuống đất. Tôi nhìn qua cửa sổ, tuy gió bão nhưng bầu trời bên ngoài trông thật đẹp, một vẻ đẹp kỳ dị. Gió như đang cuốn vòng quanh nhà, và những đám mây đen nặng nề rượt đuổi nhau khắp nơi. Tôi không thấy trăng sao đâu cả vì đã bị mây che khuất, nhưng một luồng ánh sáng xanh nhợt nhạt thì đang trùm lên ngôi nhà một cách ma quái.
“Ồ, không được, anh không thể ngắm trời trong điều kiện như thế này được”. Tôi hét lên cùng Usher, rồi kéo anh từ cửa sổ đến ngồi vào một chiếc ghế. “Đang bão mà, và gió lạnh sẽ ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe của anh. Chúng ta hãy đóng cửa lại cho ấm áp rồi cùng nhau đọc sách. À, đây là một trong những quyển anh yêu thích. Tôi sẽ đọc, anh cứ ngồi yên lắng nghe, và rồi chúng ta sẽ qua được cái đêm dễ sợ này.”
Quyển sách mà tôi cầm lên là quyển do một nhà văn hoang tưởng viết cho những người hoang tưởng đọc, và thật tình mà nói, cũng không hẳn là quyển sách mà Usher yêu thích. Tôi cầm nó lên chẳng qua vì nó ở gần tầm tay tôi nhất. Nhìn thái độ chăm chú hay giả vờ chăm chú lắng nghe của Usher, tôi hy vọng phần nào mình đã thành công trong việc khiến Usher trấn tĩnh lại.
Tôi đọc đến đoạn nhân vật chính trong truyện, một người đàn ông ngà ngà men rượu đang tìm cách phá cửa đột nhập vào một ngôi nhà; nhưng tiếng gỗ khô nứt ra từ cánh cửa không chỉ có trong sách mà dường như cũng nghe vang vọng đâu đó trong tòa nhà tôi đang ở. Điều này khiến tôi phân tâm một chút, nhưng cơn bão mỗi lúc một dữ dội, và âm thanh của nó át mất tiếng gỗ nứt vừa
nghe được khiến tôi không để ý đến nữa.
Tiếp tục đọc, bây giờ thì nhân vật chính đã xông được qua cánh cửa đổ lao vào phòng, và anh bắt gặp một con quái vật khủng khiếp thường xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích. Một cuộc chiến nổ ra, cuối cùng con vật bị hạ và nó hét lên một tiếng dài trước khi giẫy chết. Tiếng thét làm rung chuyển cả những bức tường khiến người đàn ông phải bịt cả hai tai lại.
Đến đây tôi lại dừng vì lần này rõ ràng tai tôi có nghe thấy tiếng kêu, tuy tôi không thể nói rõ rằng nó phát ra từ đâu. Âm thanh tuy xa và nhỏ nhưng ngân dài và chắc chắn khiến trí tưởng tượng của tôi cho rằng nó chẳng khác với tiếng kêu của con quái thú trong truyện
là mấy.
Tôi cố kiềm chế để Usher không thấy được những gì mình đang cảm nhận. Tôi không chắc anh ta có nghe được những âm thanh mình nghe không, dù thái độ anh ta có chút thay đổi. Anh đã kéo ghế xoay về hướng cửa ra vào nên tôi không thể nhìn rõ mặt, chỉ thấy đôi môi mấp máy như đang tự nói với chính mình. Đầu anh gục về phía trước, nhưng tôi biết không phải là anh đang ngủ, vì đôi mắt cứ mở trừng trừng còn thân thể thì lắc lư.
Tôi bắt đầu đọc tiếp, đến ngay đoạn một chiếc khiên đồng treo trên cao thình lình rơi xuống sau khi con quái vật thét lên giãy chết. Vừa đọc xong mấy câu này thì ở trong nhà dường như cũng vang lên âm thanh của một vật gì đó bằng kim khí rơi xuống đất, âm thanh ngân dài từ xa nhưng nghe rất rõ ràng. Lúc này thì sự kiềm chế đã hoàn toàn biến mất khiến tôi đứng phắt dậy; nhưng Usher thì vẫn ngồi yên, người lắc lư, đôi mắt vô hồn nhìn trừng xuống sàn nhà. Tôi chạy đến gần, đặt tay lên vai và thấy cơn run rẩy đang chuyền khắp người anh. Một nụ cười bệnh hoạn thoáng hiện trên môi và những lời hốt hoảng bất chợt ùa ra khỏi miệng anh gấp gáp như không biết rằng tôi đang có mặt.
“Anh không nghe thấy gì sao? - À, còn tôi, tôi thì có nghe đấy. từ lâu lắm rồi, nhiều phút, nhiều giờ, nhiều ngày qua tôi đã nghe, nhưng không dám, không dám nói ra. Giờ thì tôi thú thật cùng anh, tôi đã nghe thấy tiếng động trong quan tài và biết em gái tôi đã sống lại từ mấy hôm nay rồi nhưng sợ quá nên không dám nói. Anh biết giác quan tôi rất nhạy bén mà! Lúc nãy đọc chuyện, anh biết không, tiếng gỗ nứt lúc nhân vật chính phá cửa chính là tiếng cô ấy đang phá cỗ quan tài, tiếng thét dài của con quái vật là lúc cô ấy phá cửa hầm mộ, và âm thanh lúc chiếc khiên đồng rơi chính là tiếng cánh cửa đổ ầm xuống đất. Thật là nhẫn tâm khi chúng ta cố tình đặt một con người còn sống vào trong cái quan tài lạnh lẽo đó, đúng không; lý ra chúng ta phải đập nát cái nắp đó lâu rồi. Bây giờ thì đã đến lúc… Hãy lắng nghe, đúng là tiếng chân em tôi đang bước lên cầu thang đấy, đúng là tiếng đập của trái tim nó! Kìa, nó đang trách mắng tôi ngoài kia. Làm sao tôi có thể biến khỏi đây bây giờ? Chút nữa chắc nó sẽ hỏi vì sao tôi lại nỡ bỏ nó vào quan tài sớm thế… Nói đến đây, Usher chợt chồm dậy, hét lớn - “Tôi nói cho anh biết, nó đang đứng ngay bên ngoài cửa kìa!”.
Dường như tiếng thét của anh có ma lực thần bí, nên cánh cửa phòng đột nhiên từ từ mở ra. Có thể chỉ là do một luồng gió mạnh bất chợt ập đến, nhưng rõ ràng ngoài cửa có một người mặc đồ liệm trắng đang đứng đó, mà chẳng phải ai xa lạ, chính là tiểu thư Madeleine, em gái Usher. Vết máu dính đầy trên bàn tay, cánh tay, trên cả chiếc áo trắng rách tả tơi. Mọi phần trên cơ thể của cô đều in đậm dấu vết của một cuộc chiến đấu cật lực mong thoát khỏi cỗ quan tài. Cô đứng đấy lảo đảo run rẩy một lát, rồi bất chợt rên lên một tiếng nhỏ và ngã vật xuống đất trước khi anh mình kịp chạy đến. Vời dáng vẻ khiếp hãi cao độ, Usher chạy đến chỗ em, nhưng có lẽ do kiệt sức nên cũng đổ xuống bên cạnh em mình, và khoảnh khắc sau thì tắt thở.
Tôi vùng chạy khỏi căn phòng và ngôi nhà đó trong niềm khiếp hãi vô bờ. Bên ngoài, cơn bão vẫn dữ dội và khi chạy ngang hồ nước một tia chớp bất chợt lóe lên, rồi tiếp theo đó là tiếng sét lớn nổ rung chuyển cả bầu trời. Ngoái nhìn lại ngôi nhà, tôi thấy cái vết nứt chạy dài từ mái xuống đất đã nói tới lúc đầu đang mở rộng miệng ra như miệng một con quái vật khổng lồ, và các bức tường đá lâu năm bất thần đổ sụp xuống cùng một lúc. Tiếng đổ vỡ ầm ầm như tiếng núi lở. Hàng ngàn tia nước vọt lên từ mặt hồ khi những đống đá đổ xuống, phủ trùm lên tàn tích còn sót lại. Ngôi nhà của dòng tộc Usher thế là đã hoàn toàn biến mất.